Wednesday, September 14, 2016

Chọn đa đảng hay chọn bất ổn xã hội !?

Ông Nhị Lê, Phó Tổng Biên Tập Tạp Chí Cộng Sản nhìn nhận hội chứng “củ khoai tây” của Đảng CSVN:

"bề ngoài tưởng một khối thống nhất, nhưng bên trong thì năm bè, bảy mảng. Một số tổ chức đảng là tập hợp những 'củ khoai tây' trong cái bao tải. Cắt cái dây một cái là nó bung ra mỗi củ khoai tây lăn một góc. Các tổ chức chi bộ đảng có nguy cơ thành hàng ngàn những 'bao tải khoai tây'”- vietnamnet 30/1/2016 (bit.ly/2cnxzas)

Tình hình xã hội Việt Nam hiện nay đã qua rồi giai đoạn đa nguyên và đang bước vào giai đoạn đa đảng. Đa đảng do các đảng viên Đảng CSVN chủ động hay do dân chúng chủ động. Tiến trình sẽ là chuyển đổi trong ôn hoà (manageable) hay chuyển đổi mà có thể gây bất ổn xã hội.

Đa đảng không có nghĩa là có ngay dân chủ nhưng nó là bước đầu cần thiết để tiến đến dân chủ. Đó là sự chấp nhận xuống nước để tập bơi chứ không thể đứng mãi trên bờ để rồi ai đó sẽ bất thình lình xô mình xuống nước, làm cho cái giá phải trả cho sự sặc nước sẽ cao hơn.

Nên nhớ Đảng CSVN đã 71 tuổi rồi, nó sẽ không còn thọ được bao lâu (quá khứ lịch sử cho thấy tuổi thọ tối đa của một đảng liên tục nắm quyền là 74 tuổi, do sự suy đồi về ý thức hệ và tệ nạn tham nhũng trong giới lãnh đạo. - http://rfi.my/1Soy0ho). 

Cho nên những đảng viên CS nào còn xem Việt Nam là đất nước của mình thì đã đến lúc nên dứt khoát trong tư tưởng và hành động, để kịp thời tách ra khỏi đảng đang tự sụp vì sự mục rữa của nó, hầu bảo vệ căn nhà tổ quốc đang bị lâm nguy theo.

LMN AT bit.ly/2cYUVnR

14/9/2016


Monday, September 5, 2016

Đối Lập Chính Trị

GS Nguyễn Văn Bông

I – Định Nghĩa Và Các Quan Niệm Về Đối Lập

Nói đến Dân Chủ là chúng ta nghĩ ngay đến vấn đề đối lập, mà đối lập là gì? Và được quan niệm như thế nào?

A – Định Nghĩa

Chúng ta đã dùng nhiều danh từ đối lập. Mà đối lập là gì? Thế nào là đối lập? Đứng về phương diện lịch sử mà suy xét, đối lập phát sinh ở sự thực hành chính trị và liên quan đến lịch trình biến chuyển của chế độ Đại Nghị. Nói đến đối lập tức là nói đến cái gì ở ngoài đa số, ngoài chính phủ. Đối lập là khía cạnh nghị viện của vấn đề. Ý niệm đối lập cần phải được phân tích rõ ràng hơn nữa để phân biệt nó với những hiện tượng tương tự. Đối lập có ba đặc điểm: Một sự bất đồng về chánh trị, có tánh cách tập thể và có tính cách hợp pháp.

1. Trước nhất, đối lập phải là một sự bất đồng về chánh trị. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào những kẻ chống đối có thể tổng hợp lại tất cả những vấn đề được đặt ra, đưa những vấn đề ấy lên một mực độ đại cương và phán đoán theo một tiêu chuẩn chính trị. Có thể có một số đông người dân chận đường chận xá để phản đối một chính sách của chính phủ, có thể có một số đông sinh viên, một đoàn thể văn hóa hay tôn giáo biểu tình đòi hỏi những cái gì. Đành rằng những sự kiện ấy có thể có hậu quả chính trị, nhưng đó không phải là đối lập. Đó chỉ là một sự khước từ, kháng cự hay phản đối. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào sự khước từ ấy, sự kháng cự ấy, sự phản đối ấy được chính trị hóa.

2. Là một sự bất đồng về chính kiến. Đối lập phải có tính cách tập thể. Trong bất cứ lúc nào, luôn luôn có những người bất đồng chính kiến với chính quyền. Có thể có một thiểu số đông anh em, thỉnh thoảng họp nhau, rồi trong lúc trà dư tửu hậu, bàn quốc sự, có một thái độ chống đối đường lối, chủ trương của chính phủ. Đó là những kẻ chống đối, những cá nhân đối lập. Và những kẻ chống đối ấy có thể có trong chính thể Độc Tài, Cộng Sản. Đó không phải là đối lập.

Đối lập chỉ có khi nào sự bất đồng chính kiến ấy có tính cách tập thể, khi nào nó là kết quả biểu hiện một sự hành động có tổ chức của những kẻ chống đối. Nói đến sự hành động có tổ chức là nghĩ ngay đến chính đảng. Chỉ có đối lập khi nào có một chính đảng đối lập.

3. Là một sự bất đồng về chính kiến có tính cách tập thể, đối lập phải hợp pháp nữa. Có thể vì một lý do gì mà một đoàn thể phải dùng võ lực chống lại chính quyền. Có thể vì một lý do gì mà một chính đảng phải hoạt động âm thầm trong bóng tối. Những hành động ấy, đành rằng nó có tính cách tập thể và kết quả của một sự bất đồng chính kiến, không được xem là đối lập. Những hành động ấy chỉ được xem là những cuộc âm mưu phiến loạn hay kháng chiến, nó không còn là đối lập nữa. Vì đối lập chỉ hoạt động trong vòng pháp luật.

B – Các Quan Niệm Về Đối Lập

Một khi đã ý thức được danh từ “đối lập” và nhận định tầm quan trọng của nó trong cuộc sinh hoạt chính trị, vấn đề then chốt được đặt ra là xác định vị trí của đối lập trong các chính thể. Nếu tinh túy của dân chủ là lòng độ lượng, khoan dung và tự do chính trị, thì lẽ tất nhiên lòng độ lượng, khoan dung và tự do chính trị ấy được thể hiện trên bình diện chính trị, qua những quyền của đối lập và sự hiện diện của đối lập chỉ là kết quả của sự thừa nhận tự do chính trị. Đối lập chỉ có giá trị và hiệu quả trong một chế độ mà triết học chính trị là Dân Chủ Tự Do. Vì đối lập dựa trên tinh thần khoan dung, trên sự chính đáng của bất đồng chính kiến. Vì thừa nhận tính cách tương đối của chân lý chính trị.

Một quan niệm đối lập như thế, dựa trên Chủ Nghĩa Tự Do, Chính Thể Độc Tài không thể chấp nhận được. Trong chính thể này, chính quyền là tất cả, còn đối lập chẳng những vô ích mà còn nguy hiểm nữa. Vô ích vì những nhà độc tài luôn cho rằng ý thức hệ của mình là bất di bất dịch và vai trò của cơ quan công quyền không phải tìm lấy một ý chí đi sát với nguyện vọng của quốc gia mà trái lại chỉ có nhiệm vụ áp dụng mệnh lệnh của chính đảng nắm quyền lãnh đạo. Chẳng những vô ích, đối lập còn nguy hiểm nữa. Nguy hiểm cho sự thực hiện nguyện vọng của quần chúng, vì hành động của đối lập phân ly quần chúng. Bởi thế, đối lập cần phải được thanh trừng và những cái mà người ta gọi là Dân Chủ, quyền tự do công cộng, những lợi khí mà đối lập dùng để hoạt động, lợi khí ấy cần phải được cấm nhặt.

Bị khước từ bởi những chính thể Độc Tài, đối lập chỉ được thừa nhận trong chính thể Dân Chủ, chẳng những trên bình diện triết lý chính trị, đối lập còn được chứng minh qua khía cạnh cuộc điều hành thực tiễn của định chế. Chính sự hiện diện của đối lập phản ảnh tính cách chân chính của ý chí quốc gia. Trong những chế độ mệnh danh là “nhất tề – nhất trí”, trong những chế độ mà người ta chỉ nghe 99 phần trăm, đành rằng không phải không thể có được, nhưng sự vắng mặt của đối lập làm cho người ta lắm lúc phải hoài nghi. Chỉ trên bình diện thực tại, vai trò của đối lập chứng tỏ rằng, mặc dù bị loại ngoài hệ thống chính quyền, đối lập cần có mặt và phát biểu.

Một quan niệm quá ư rộng rãi về Dân Chủ, lẽ tất nhiên – dựa trên một sự đối lập chân thành, xây dựng. Nhưng ý niệm đối lập ngày nay quá biến chuyển. Một hiện tượng mới đã xảy ra, một đối lập, không phải trong chính thể, mà chống chính thể Dân Chủ, một sự đối lập hoàn toàn phủ nhận nguyên tắc Dân Chủ, một sự đối lập về ý thức hệ. Tất cả vấn đề là thử hỏi, trước một sự đối lập như thế, thái độ của chính thể Dân Chủ phải như thế nào. Một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và trên bình diện quốc tế, những giải pháp bảo vệ chính thể Dân chủ tùy thuộc hoàn cảnh thực tại chính trị của mỗi nước.

Dù sao, để trở lại vấn đề đối lập trong chính thể Dân Chủ, không ai có thể chối cãi tính cách chính đáng của sự hiện diện của đối lập. Nhưng đối lập, chẳng những phải có mặt mà còn phải có thể phát biểu nữa. Mà đối lập phát biểu để làm gì và hành động của đối lập sẽ có tác dụng gì trong guồng máy chính trị quốc gia? Và theo thủ tục nào, dưới hình thức nào, với những bảo đảm nào, đối lập có thể mạnh dạn và thành thực phát biểu ý kiến?

Đó là hai vấn đề cực kỳ quan trọng, vấn đề vai trò của đối lập và vấn đề qui chế của đối lập, hai vấn đề căn bản mà chính thể Dân chủ cần phải giải quyết một cách phân minh để ổn định cuộc sinh hoạt chính trị và để đối lập làm tròn sứ mạng của nó.

II- Vai Trò Của Đối Lập

Trong chính thể Dân Chủ thật sự, hiện diện của đối lập là một điều hết sức chính đáng. Chính đáng vì thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tự do chính trị. Chẳng những chính đáng, đối lập lại còn cần thiết nữa. Cần thiết cho phẩm tính, đối lập còn cần thiết cho sự hiện hữu của chính quyền nữa. Trong cuộc sinh hoạt chính trị ổn định, đa số ở đâu ra, chính quyền hiện tại ở đâu ra, nếu không phải là sự kết tinh của sự tranh chấp với đối lập? Trên khía cạnh này, đối lập đóng vai trò căn bản, vai trò hợp tác với chính quyền, đó là hai khía cạnh của vai trò đối lập.

A – Vai Trò, Hạn Chế Và Kiểm Soát Chính Quyền

1- Hạn chế và kiểm soát chính quyền. Đó là một trong những hoạt động cốt yếu của đối lập ở bất cứ lúc nào trong cuộc sinh hoạt chính trị. Trước hết, ở giai đoạn tuyển cử đối lập có mặt, có thể phát biểu ý kiến, đối lập có quyền phủ nhận làm cho chính quyền bỏ bớt thái độ cứng rắn, những chương trình mỵ dân, những hứa hẹn hão huyền. Đối lập chận đứng lại những tư tưởng hẹp hòi, những quan điểm thiển cận, tư tưởng và quan điểm không phải của một chính phủ quốc gia mà hoàn toàn lệ thuộc vào mệnh lệnh của đảng phái.

2- Đối lập bảo đảm tính cách đích xác công khai của những quyết định của nhà nước. Thật vậy, khi mà chúng ta nói đến ý chí của toàn dân, ý chí của quốc gia, cần phải nhận định rằng đó chỉ là ý chí của đa số. Ý chí của đa số là ý chí của quốc gia, cái phương trình ấy chỉ có giá trị khi nào quyết định của đa số được chấp thuận trong một bầu không khí cởi mở, sáng tỏ và tự do. Chính đối lập bảo đảm tính cách đích xác của quyết định của đa số và bắt buộc đa số nắm chính quyền phải tham dự một cuộc tranh luận công khai. Vẫn biết rằng, trong chế độ Tổng Thống hay trong chế độ Đại Nghị mà chính phủ có đa số ở Quốc Hội, đối lập không thể ngăn cản chính quyền hành động theo ý của họ. Nhưng, tự do chỉ trích, đối lập bắt buộc địch thủ phải tiết lộ dự định của họ, những lý do của một quyết định của họ. Và như thế, đối lập bảo đảm rằng, khi một biện pháp hay chính sách được chấp thuận, những lý lẽ chống đối hay bênh vực biện pháp, chính sách ấy, đều được công khai đưa ra dư luận. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền, đối lập đảm đương một cách thiết thực hơn nữa trên diễn đàn Quốc Hội.

3 – Với phương tiện nào đối lập đóng vai trò của nó trên bình diện nghị viện? Đành rằng cơ cấu chính phủ nước này không giống nước kia, nhưng trong bất cứ chính thể Dân Chủ nào, người ta cũng tìm thấy từng ấy phương tiện cho phép đối lập phát biểu công khai ý kiến của họ. Trong những lúc bàn cãi và biểu quyết ngân sách quốc gia, sự hiện hữu của đối lập bắt buộc chính quyền bỏ hẳn chương trình mỵ dân, thái độ cứng rắn, và nhứt là chính quyền hết sức dè dặt khi bắt buộc toàn dân phải hy sinh quá độ. Cuộc đối thoại giữa chính phủ và quốc hội – chung qui giữa chính quyền và đối lập – qua những cuộc tranh luận, những câu hỏi, những cuộc tiếp xúc với ủy ban hay giữa phiên họp công khai là những dịp mà các vị Dân Biểu đối lập nói lên những lạm dụng của cơ quan hành chánh, hay nhận được – qua cuộc trình bày của các vị Bộ Trưởng – tin tức về một vấn đề nhất định hay câu trả lời đích xác. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền được biểu hiện một cách thiết thực nữa qua nguyên tắc trách nhiệm chính trị. Chúng ta biết rằng trong chế độ Đại Nghị, chính phủ bắt buộc phải từ chức khi đa số ở Quốc Hội biểu quyết chống chính phủ. Yếu điểm này sẽ là một ảo mộng nếu không có một đối lập thực sự.

Vậy qua từng giai đoạn của sự khởi thảo chương trình và trong hành động hàng ngày, chính quyền luôn luôn để ý đến lập trường của đối lập, tự kiểm soát lấy mình và trong việc ấn định kế hoạch quốc gia, lắm lúc phải nhận lấy chủ trương của đối lập. Thái độ này không nhằm làm vui lòng đối lập mà cho toàn dân, vì để ý đến lập trường của đối lập trong việc xác định đường lối chính trị, chính quyền hướng về nguyện vọng của quốc gia.

4 – Hạn chế và kiểm soát chính quyền. Vai trò tối quan trọng này, không phải đối lập luôn luôn đảm đương với tất cả hiệu quả thật sự. Không, vấn đề không phải ở chỗ đó. Vấn đề là ở khía cạnh tâm lý của toàn dân. Vấn đề là mỗi công dân có thể chắc chắn rằng, ngoài Quốc Hội hay trên diễn đàn Quốc Hội, có những người đại diện có thể phát biểu ý kiến của mình, không phải theo đường lối của chính quyền mà khác hẳn chính quyền. Và dù rằng ý kiến không được chấp thuận đi nữa, họ có cảm giác rằng sự kiện ấy do nơi quyền lợi tối cao của quốc gia, chứ không phải vì tính thị hiếu nhất thời, chuyên chế. Cần phải nhận định rằng, đối lập không những là tượng trưng cho một khuynh hướng chính trị, đối lập còn có giá trị tự bản chất nó nữa. Vì chỉ có đối lập và bởi đối lập mà việc kiểm soát của toàn dân mới có tính cách chân thành và hiệu lực trong một chế độ thương nghị, không những hạn chế, kiểm soát chính quyền, đối lập còn cộng tác với chính quyền nữa.

B – Vai Trò Cộng Tác Với Chính Quyền

Cho rằng đối lập cộng tác với chính quyền, đó là một khẳng định có hơi mâu thuẫn. Tuy nhiên chính đó là khía cạnh tích cực của vai trò đối lập. Và chúng ta có thể quả quyết rằng cái lợi của chính quyền là dung túng đối lập.

1 – Qua những cuộc tranh luận trong một bầu không khí cởi mở, những ý tưởng khích động tinh thần, những định kiến bớt phần cứng rắn, những ý kiến được chọn lọc và uy quyền sáng tỏ. Bất cứ một chính quyền nào cũng có khuynh hướng tự giam mình trong tình trạng cô đơn, chỉ nghe lời của đồng chí và lấy quyết định phù hợp với ảo vọng hoang đường qua những nhận xét riêng biệt của mình về thời cuộc. Đối lập có mặt, nhắc lại cho đoàn thể ở chính quyền tính cách phức tạp của thực tại chính trị, đem lại những màu sắc chính trị và đôi khi phản kháng lại những truyền tin báo cáo đơn phương của chính phủ. Qua những hành vi tích cực ấy, chính quyền thâu lượm được những dấu hiệu quý giá về tình trạng tinh thần của dư luận. Chẳng những trong lãnh vực thông tin, vai trò cộng tác với chính quyền của đối lập nổi bật lên nữa qua khía cạnh nghị viện.

2 – Tất cả những công việc thuộc về thiết lập chương trình nghị sự, về những vấn đề cần phải được thảo luận, những dự án ưu tiên, những cuộc tiếp xúc v.v…, tóm lại, vấn đề liên hệ đến việc tổ chức công tác của Quốc Hội, sự thỏa thuận giữa đối lập và chính quyền là điều kiện cốt yếu của một tình trạng chính trị ổn định. Và lịch sử đã chứng minh rằng, trong những trường hợp đặc biệt, trong những tình trạng khẩn cấp, tối cần, trong những trường hợp mà sinh tồn của quốc gia được đặt ra, trong những trường hợp ấy, lịch sử đã chứng minh rằng đối lập từ khước độc lập và lắm lúc lại ủng hộ chính quyền để bảo vệ uy thế của chính quyền lúc phải đương đầu với mọi cuộc ngoại xâm.

3 – Hướng dẫn chính quyền tham gia vào cuộc điều hành công tác Quốc Hội, một sự đối lập có tổ chức, có hệ thống đóng một vai trò cực kỳ quan trọng là chủ trương một chính sách để thay thế cho chính sách chính quyền. Cần phải nhấn mạnh đặc điểm này. Trong những xứ mà tình trạng chính trị chưa ổn định, trong những xứ mà đối lập vắng mặt, người ta luôn luôn lo ngại cho tương lai chính trị quốc gia. Ai sẽ thay thế nhà lãnh tụ hôm nay? Viễn tượng những cuộc cách mạng đẫm máu, những cuộc chính biến, viễn tượng những gián đoạn chính trị đầy hậu quả làm cho cuộc sinh hoạt chính trị kém phần tích cực. Đối lập, trong chính thể Dân Chủ, cho phép Quốc Gia xoay chiều, đổi hướng trong khung cảnh của định chế và không tổn thương đến sự liên tục của cuộc sinh hoạt chính trị. Đối lập là chính phủ của ngày mai, đối lập tượng trưng sự tin tưởng vào định chế quốc gia, đối lập duy trì sự liên tục của chính quyền.

Một sự đối lập hữu hiệu là một lực lượng tích cực. Cần phải nhận định rằng đối lập không phải là lực lượng luôn luôn chống đối chính quyền. Đối lập và chính quyền là hai yếu tố căn bản của thế quân bình chính trị trong chính thể Dân Chủ.

Hạn chế và kiểm soát chính quyền, cộng tác với chính quyền, một khi đã hiểu như thế, vai trò của đối lập, vấn đề được đặt ra bây giờ là thử hỏi trong điều kiện nào đối lập có thể làm tròn sứ mạng của nó trong một bầu không khí khoan dung, khi mà một số quyền hạn của đối lập được xem là bất khả xâm phạm và đồng thời đối lập thông suốt nhiệm vụ của mình. Kê khai những quyền hạn ấy, ấn định nghĩa vụ của đối lập, tức là bàn đến vấn đề quy chế của đối lập.

III – Quy Chế Của Đối Lập

Vấn đề ấn định quy chế của đối lập tùy thuộc mỗi quan niệm riêng về đối lập. Nếu đối lập chỉ được xem là một quyền đối lập, nó chỉ là hậu quả tất nhiên của thể chế chính trị Dân Chủ Tự Do. Đối lập tức là có quyền xử dụng tất cả những tự do hợp pháp. Trái lại, nếu đối lập được đưa lên hàng một chức vụ rất cần thiết cũng như chính quyền, nếu đối lập được xem không phải là một việc bất đắc dĩ, mà là một liều thuốc kích thích chính quyền, thì theo quan niệm này, quy chế chẳng những bảo đảm tự do của đối lập mà còn chú ý tới công hiệu của nó nữa. Tổ chức đối lập, định chế hóa đối lập đó là quan niệm thứ hai của đối lập.

Nhưng dù có được định chế hóa hay không, đối lập để có thể đảm đương vai trò chủ yếu của nó, phải là một đối lập tự do và xây dựng. Nói đến đối lập tự do là phải nghĩ ngay đến quyền hạn của nó; nói đến đối lập xây dựng là nghĩ đến ngay nghĩa vụ của nó.

A – Một Trong Những Quyền Hạn Của Đối Lập

1 – Là quyền không thể bị tiêu diệt. Vì đối lập luôn luôn là một chướng ngại, chính quyền hay có khuynh hướng thừa một cơ hội nào đó, tẩy trừ phần tử rối loạn ấy đi. Vẫn biết rằng, có những lúc, những giờ phút nguy nan, đối lập hoặc tự mình, hoặc thỏa thuận với chính quyền, ngưng hẳn những phê bình hay chỉ trích. Nhưng đó chỉ là im hơi, lặng tiếng; chớ quyền sinh tồn vẫn là quyền tối cao của đối lập. Tiêu diệt đối lập tức là dọn đường cho Chủ Nghĩa Độc Tài. Đối thoại trở thành độc thoại.

2 – Quyền thứ hai của đối lập là quyền phát biểu. Và quyền phát biểu này được thể hiện bởi những cái mà người ta gọi là tự do công cộng. Số phận của đối lập sẽ ra sao nếu đối lập không tự do có ý kiến khác hẳn ý kiến chính quyền, và tự do phát biểu ý kiến ấy trên báo chí và sách vở? Nếu đối lập không được tự do hội họp? Chỉ có đối lập thật sự trong một chế độ mà các tự do này được ấn định và chế tài một cách hợp lý.

Chúng ta có nói rằng thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tính cách tương đối của chân lý chánh trị Dân Chủ. Tính cách tương đối này được thể hiện qua sự tự do tuyển cử. Tự do tuyển cử tức là tự do trình ứng cử viên, tự do cổ động và nhất là sự bảo đảm tính cách chân thành của kết quả cuộc bầu cử.

Trên bình diện đại nghị, đối lập cần phải được đặc biệt bảo vệ. Trường hợp Dân Biểu đối lập bị bắt bớ hay tống giam không phải là những trường hợp hiếm có. Vì thế mà quyền bất khả xâm phạm của Dân Biểu là một thực tại.

Những quyền hạn mà chúng tôi đã sơ lược kê khai không phải chỉ dành riêng cho đối lập. Đó là quyền bảo vệ tất cả công dân trong chính thể Dân Chủ. Nhưng phải thành thật mà nhận định rằng tự do phát biểu, tự do tuyển cử, quyền bất khả xâm phạm v.v… là những điều kiện quí giá cho đối lập luôn luôn bị chính quyền đe dọa.

Đó là điều kiện tối thiểu. Một quan niệm cấp tiến đã đi đến chỗ định chế hóa đối lập. Đối lập trở thành một thực thể có hiến tính. Đó là trường hợp của Anh Quốc vậy.

Ở nước Anh, đối lập có một tước vị chính thức “đối lập của Nữ Hoàng”. Và đối lập của Nữ Hoàng có cả chính phủ riêng của họ, một nội các bóng trong Hạ Nghị Viện. Vị lãnh tụ đối lập của Nữ Hoàng là một nhân vật cao cấp đầy uy thế, luôn luôn được mời đến cùng vị Thủ Tướng tham dự những buổi lễ chính thức và luôn luôn được tham khảo ý kiến về những vấn đề chính trị trọng đại. Và xin nhắc lại một điều rất lý thú là “nhà nước lại phải trả lương cho vị lãnh tụ đối lập”.

Nhưng dù sao, định chế hóa hay không, quyền sinh tồn và những điều kiện thuận tiện để tự do phát biểu, chỉ có ý nghĩa khi nào đối lập tin tưởng có quyền nắm lấy chính quyền. Chính sự bình đẳng trong vận hội ấy làm cho cuộc sinh hoạt chính trị thêm phần phấn khởi.

Đối lập có vài quyền hạn để đảm đương vai trò của nó. Nhưng đối lập không phải chỉ có quyền. Một số nghĩa vụ hạn chế hoạt động của đối lập, nghĩa vụ nhằm mục tiêu tôn trọng tinh thần Dân Chủ.

B – Những Nghĩa Vụ Của Đối Lập

Một trong những nghĩa vụ của đối lập là thừa nhận quy luật đa số. Những ai quan tâm đến cuộc bầu cử đều rõ rằng có thể xảy ra trường hợp mà vị Tổng Thống đắc cử hay một chính đảng chiếm đa số ở Quốc Hội trong lúc phiếu của mình lại kém địch thủ thất bại. Nhưng đó chỉ là hậu quả kỹ thuật của luật tuyển cử. Và công lý là một chuyện, mà hợp pháp là một chuyện khác nữa. Trường chính trị là một cuộc tranh đấu công nhận quy luật đa số, tức là thẳng thắn tham gia cuộc đấu tranh bởi đó là luật lệ của nguyên tắc dân chủ.

Nghĩa vụ thứ hai của đối lập là hoạt động một cách ôn hòa xây dựng và có tinh thần trách nhiệm. Những chỉ trích vớ vẩn, những vu khống không có căn bản chính trị của những kẻ tự cho là chính khách, những phê bình chỉ đem lại hoài nghi và bất mãn, đó là những tệ đoan của sự đối lập không xứng đáng với danh hiệu của nó. Vì đâu lại có một hiện tượng bất thường như thế? Ngoài tham vọng cá nhân, hiện tượng này phát sinh từ một hệ thống chính đảng nhất định và liên quan đến khía cạnh ý thức hệ của một vài chính đảng.

Trong một xứ, một hệ thống đa đảng là một thực tại chính trị, khi mà không một chính đảng nào chiếm đa số hay ưu thế trên sân khấu chính trị. Chính phủ luôn luôn là một chính phủ liên hiệp. Mà liên hiệp tức là tập hợp những khuynh hướng mâu thuẫn, dung hòa những chính sách tương phản. Chính cái viễn tượng không bao giờ tự mình chiếm được hoàn toàn quyền và thực hiện những chương trình hứa hẹn làm cho chính đảng thiếu ý thức xây dựng và tinh thần trách nhiệm. Tính cách rời rạc và chia rẽ của đối lập, chỉ biết phá hoại biến đổi hẳn mối tương quan truyền thống giữa đa số và thiểu số. Đối lập không còn là đối lập ngoài và chống chính phủ, đối lập ở đây là đối lập trong chính phủ.

Chẳng những thế, khía cạnh ý thức của một vài chính đảng là nguyên do thứ nhì của sự thiếu tinh thần xây dựng. Đối lập chỉ có nghĩa trong một khung cảnh chính trị nhất định. Nếu chúng ta đồng ý về một nguyên tắc căn bản, nếu chúng ta thừa nhận chủ quyền nhân dân, nguyên tắc phân quyền, tự do chính trị, nếu chúng ta tôn trọng nhân vị, sự độc lập của Thẩm Phán hay quyền tự do phát biểu, thì cuộc tranh chấp chính trị chỉ nằm trên lãnh vực thực tiễn qua những nguyên tắc thứ yếu. Trái lại, nếu đối lập nhằm chống lại, không phải một khuynh hướng chính trị hay một chính sách nhất định, mà chính cả nền tảng của xã hội, nghĩa là chống cả chính thể, thì khẳng định rằng đối lập là chính phủ tương lai không còn giá trị nữa. Vì đặc tính của đối lập về ý thức hệ là chiếm chính quyền để rồi thủ tiêu quyền đối lập.

Trong một tình trạng như thế, trước tình trạng mà đối lập không thi hành nghĩa vụ của nó, những quyền hạn không còn lý do tồn tại nữa. Và “Chính Thể Dân Chủ” cần phải có những biện pháp thích nghi để đối phó. Sa thải những phần tử bất chính trong hành chính, bắt buộc đối lập phải có một chương trình và có năng lực nắm chính quyền trước khi lật đổ chính phủ, sửa đổi luật bầu cử, đặt ngoài vòng pháp luật những chính đảng quá khích, đó là một vài ví dụ cụ thể về biện pháp được áp dụng để bảo vệ Chính Thể Dân Chủ.

IV – Đối Lập Trong Các Quốc Gia Chậm Tiến

Phác họa như thế, vai trò và “qui chế đối lập” trong “chính thể dân chủ” qua sự biến chuyển của ý niệm trong xã hội cận đại, chúng ta không khỏi tự nhủ rằng đó là lý tưởng. Và tự hỏi rằng lý tưởng ấy có phù hợp với những quốc gia trên đường phát triển, với hiện tình những nước vừa thu hồi độc lập.

Thực tại chính trị cho chúng ta biết rằng, đối lập nếu không hoàn toàn vắng mặt, thì chỉ được dung túng một phần nào, một phần nhỏ nào, trong những nước mới này, những nước mệnh danh là Dân Chủ và đồng thời cũng được xem là những chính thể không độc tài. Tại sao lại có một sự kiện oái oăm như thế?

Lý do thứ nhất mà người ta đưa ra là sự đe dọa trầm trọng của độc tài Cộng Sản. Những nước mới này, là những nước bị nạn Cộng Sản đe dọa và có nước đang chiến đấu một mất một còn với Cộng Sản. Dung túng đối lập tức là cho Cộng Sản cơ hội núp sau lá cờ đối lập để phá hoại nền dân chủ. Đối lập Cộng sản là đối lập về ý thức hệ, và chúng ta biết rằng đối lập về ý thức hệ là đối lập chống chính thể Dân Chủ.

Lý do thứ hai là trình độ giáo dục của quần chúng. Người ta cho rằng dân chúng chưa có một trình độ giáo dục về chính trị khá đầy đủ để cho có thể xử dụng một cách hoàn hảo những quyền tự do công cộng. Và như thế, đối lập chỉ có hại vì nó sẽ là bức bình phong của những tham vọng cá nhân của những kẻ không cơ sở chính trị chỉ dựa trên cuộc chính đồ sinh hoạt. Hơn nữa, thì giờ gấp rút, nâng cao mực sống của toàn dân là một việc tối cần, lúc kiến quốc không phải lúc bàn cãi, phê bình hay chỉ trích.

Những lý do mà chúng ta vừa nêu ra rất là chính đáng. Nhưng chính đáng không có nghĩa là phải chấp nhận. Trong lĩnh vực chính trị và xã hội, sự hoàn hảo của một định chế chính trị là kết quả của kinh nghiệm. Làm sao hy vọng một nhận thức khá cao của quần chúng, nếu hôm nay không có học tập hướng về Dân Chủ? Không phải nhất thiết áp dụng tất cả những gì đã có hay đang có ở Tây Phương. Thực tại chính trị xã hội văn hóa của mỗi nước là yếu tố căn bản. Nhưng điều kiện tối thiểu phải có để đối lập được phép khởi đầu và phát triển.

Vả lại, vì thiếu đối lập mà Cộng Sản và những phần tử phản Dân Chủ nắm mất chính nghĩa đối lập và lợi dụng khai thác những bất mãn, than phiền của quần chúng.

Vậy để tránh mọi sự ngộ nhận giữa chính quyền và nhân dân, để cho trạng thái tinh thần khủng hoảng của dư luận được thể hiện một cách ôn hòa, để cho phần tử phiến loạn hết cơ hội lợi dụng tuyên truyền và khai thác, vấn đề đối lập tự do và xây dựng cần phải được đặt ra. Và như thế không những trong những nước tiền tiến, mà chính ngay trong những tân quốc gia, công cuộc kiến quốc và cứu quốc, công cuộc xây dựng nền Dân Chủ phải là kết tinh của hoạt động song phương giữa chính quyền và đối lập.

Giáo Sư Nguyễn Văn Bông

bit.ly/1JsdIDr

Quân Vương và Đối Lập: Sự Đe Dọa Định Chế Dân Chủ Thái

Lê Minh Nguyên

13/12/2008

Hôm nay ngày 13/12/2008, tôi hân hạnh được Ban Tổ Chức buổi ra mắt cuốn Di Cảo Gíáo Sư Nguyễn Văn Bông mời thuyết trình về đề tài dân chủ pháp trị và đối lập chính trị ở hội trường của Việt Báo này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Tổ Chức.

Đây là đề tài về một hệ thống giá trị xã hội mà GS Bông đã bỏ tâm huyết và cả mạng sống của mình để tìm cách thăng tiến cho dân tộc Việt Nam, và tuy GS đã trình bày từ 45 năm qua, nhưng nó cũng vẫn còn như quá mới trên đất nước Việt Nam của chúng ta.

Nhân cơ hội này tôi muốn trình bày một trường hợp điển hình, một case study, của Thái Lan, sau khi đi qua những quan điểm chính trị chính yếu của GS Bông.

Quan Điểm Của GS Bông về Dân Chủ Pháp Trị và Đối Lập Chính Trị

Nhân ngày lễ khai mạc tại trường Đại Học Luật Khoa Saigon 1/8/1963, GS Bông hiên ngang không e ngại, dù không khí chính trị lúc bấy giờ chưa phải là thuận tiện, đã diễn giảng bài "Đối Lập Trong Chính Thể Dân Chủ". 

Ông mở đầu bài giảng bằng một câu chuyện thời Chiến Quốc, vua Tề Cảnh Công hỏi nhà trí giả Yến Tử rằng trong thuật trị nước cần phải ngăn ngừa điều gì trước hết, và Yến Tử trả lời là phải ngăn ngừa những con chuột ở nền xã. Việc này rất khó vì nền làm bằng gỗ, nếu un lửa thì sợ cháy gỗ, nếu đổ nước thì sợ tróc sơn. Ý của Yến Tử, chính quyền là nền xã và những kẻ nịnh thần vây chung quanh vị lãnh đạo để vinh thân phì da là những con chuột, bên trong luôn che mắt người lãnh đạo, bên ngoài lo buôn bán quyền hành, tham nhũng, hãm hại nhân tài. 

Theo GS, những con chuột này hiện hữu ở bất cứ thời đại nào, bất cứ đất nước nào và bất cứ thể chế chính trị nào. Trong chính thể quân chủ, muốn diệt nó phải dựa vào sự sáng suốt của một cá nhân ở địa vị tối cao, tức bậc minh quân, và theo Hàn Phi Tử, minh quân như Nghiêu Thuấn thì ngàn đời mới có một người, do đó nếu thiếu vắng cơ chế pháp trị thì loạn nhiều hơn trị. Trong chính thể dân chủ pháp trị, đối lập chính trị sẽ làm cho chuột không có môi trường dơ bẩn để lộng hành và đối lập được định chế hóa một cách vững chắc.

Theo GS Bông, sự khác biệt trọng đại giữa độc tài và dân chủ là độc tài từ khước đối lập, còn dân chủ thì đối lập được chính thức nhìn nhận và tôn trọng. Dân chủ công nhận tính cách tương đối của chân lý chính trị, bởi vì chân lý là cái gì mà mọi người đều đồng ý, trong khi đó thì con người luôn luôn phát triển và thay đổi, cho nên không có chuyện mọi người đồng ý nhau mãi khi không gian và thời gian đã khác.

Tôi còn nhớ những ngày thoi thóp của tháng 4/1975 GS Lê Đình Chân trong những buổi giảng cuối cùng của Ban Cao Học Công Pháp trường Đại Học Luật Khoa Saigon, ông kể chuyện ông Staline của Liên Sô nói với Thủ Tướng Churchill của Anh rằng nước Liên Sô và nước Anh đều lấy đảng trị quốc thì đâu có gì khác nhau. Ông Churchill trả lời là có khác, khác ở chổ là ở nước Anh nếu bốn giờ sáng có người đến gõ cửa nhà thì chủ nhà biết ngay là người đi giao sửa, còn ở Liên Sô thì chủ nhà phải lo đi viết ngay một tờ di chúc.

Đối lập là vấn đề thiểu số và sự bảo vệ thiểu số, Hiến Pháp Hoa Kỳ được lập ra với đa số những điều khoản chủ yếu là để bảo vệ thiểu số, bởi vì đa số đã thắng, nắm quyền và hướng đi của đất nước là hướng của đa số, thì kẻ cần được bảo vệ để đất nước có thể đi một cách mạnh lành là thiểu số chứ không phải đa số.

GS Bông liệt kê ba đặc điểm chính của đối lập là

(1) một sự bất đồng về chính tri, tức những sự khước từ, kháng cự hay phản đối phải được chính trị hóa để trở thành một lập trường, một đường lối hay một chính sách, 

(2) có tính cách tập thể, tức là hành động có tổ chức như một chính đảng hay một đòan thể áp lực, 

(3) có tính cách hợp pháp, có nghĩa là nó công khai và nằm trong vòng pháp luật. 

Ta thấy trong đại hội năm 2004 của đảng Cộng Sản Nhật Bản mà ông Phan Diễn, lúc đó là Ủy Viên Bộ Chính Trị Cộng Sản Việt Nam dẫn phái đoàn tham dự, đảng CS Nhật đã chính thức từ bỏ chủ trương bạo lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm lật đổ chế độ quân chủ lập hiến (tức dân chủ có vua) của Thiên Hoàng và chấp nhận hoạt động trong khuôn khổ của chế độ.

Tinh hoa của chế độ dân chủ là sự độ lượng, khoan dung và tự do chính trị. Nó được thể hiện bằng những quyền của đối lập. Đối lập vừa có tính chính đáng vừa có tính cần thiết, nó có hai vai trò.

(1) Vai trò hạn chế và kiểm sóat chính quyền, vì quyền lực tập trung, không có kiểm soát và thăng bằng là quyền lực dễ bị nhũng lạm. Nó ngăn chận những quan điểm thiển cận, phục vụ quyền lợi cục bộ của phe nhóm hay đảng phái cầm quyền. Nó đòi hỏi một sự tranh luận công khai để quần chúng biết rõ lý do, dự tính của các đường lối, chính sách. 

Ở Việt Nam vì ngăn cấm đối lập hoạt động cho nên những hiệp ước ký với Trung Quốc về lãnh thổ năm 1999 và lãnh hải năm 2000 được thực hiện một cách bí mật và Quốc Hội bị Bộ Chính Trị khống chế để thông qua vội vã không có công khai thảo luận, đến nỗi sau hơn tám năm vẫn giấu kín bản đồ. Hậu quả là mất đất mất biển, mất nguồn lợi kinh tế của ngư dân, một sự tổn thất nặng nề cho dân tộc và đất nước. Nó xảy ra như một tiến trình kéo dài từ Hội Nghị Thành Đô năm 1990 với bí mật bao trùm, trước cao trào sụp đổ của Đông Âu và Liên Sô mà CSVN thương lượng đường tắt với TQ, sau lưng Bộ Ngoại Giao, trong tư thế xin cứu rỗi.

Đối lập là tấm gương soi của chính quyền để có thể nhìn thấy được mình và trừ được chuột của nền xã. Hiện tượng cá độ ở PMU 18 và tham nhũng xa lộ Đông-Tây cho thấy nền xã đã bị những con chuột cống quá to đang phá hoại. 

Theo GS Bông, trong việc kiểm sóat chính quyền, phía đối lập không thể luôn đảm đương một cách có hiệu quả, và vấn đề không phải nằm ở chổ đó, mà là tâm lý của tòan dân. Dân chúng có cảm giác là quyền lợi tối cao của quốc gia nhờ đó mà được bảo vệ, ý kiến của mình sẽ có người đại diện nói thay mà không sợ bị chính quyền trù dập.

(2) Vai trò hợp tác với chính quyền để bảo vệ quyền lợi chung của quốc gia dân tộc. GS Bông khẳng định rằng cái lợi của chính quyền là dung túng đối lập. Thực vậy, trong sự đương đầu với bên ngoài, nhất là chống ngoại xâm, hay cần cứu vãn một tình trạng suy thoái kinh tế như ở Hoa Kỳ hiện nay, một mình chính quyền không đủ sức làm và không đủ sức huy động sự tham dự của tòan thể dân chúng. Vì nhu cầu lãnh đạo là một nhu cầu quan trọng và thường trực cho đất nước, cho nên đối lập giúp cho đất nước tránh được tình trạng bị rơi vào khoảng chân không chính trị. Nó là sự chuẩn bị cho nối tiếp lãnh đạo, duy trì sự liên tục của chính quyền và giúp quốc gia xoay chiều đổi hướng (như ở Hoa Kỳ hiện nay) trong khung cảnh của định chế và không bị xáo trộn hay bất ổn xã hội. Nó là một trong hai mặt của đồng tiền, là một quẻ của dịch lý âm dương, là một trong hai con số (0 và 1) của hệ thống đếm hai trong ngôn ngữ điện toán. Các xã hội thiếu nó là các xã hội bệnh hoạn bất bình thường. Nó là yếu tố căn bản và nền tảng cho sự quân bình chính trị.

Đối lập cần có hiến pháp, luật pháp và quy chế che chở để bảo đảm một bầu không khí khoan dung, một số quyền bất khả xâm phạm như quyền không thể bị tiêu diệt, quyền phát biểu, quyền tự do tuyển cử. Đối lập cũng có những nghĩa vụ rõ ràng như nghĩa vụ tôn trọng qui luật đa số, chấp nhận mình thua khi ý chí của nhân dân là như vậy, có nghĩa vụ hoạt động ôn hòa xây dựng và tinh thần trách nhiệm. Nền tảng để cả hai phía chính quyền và đối lập hiện hữu là chính thể dân chủ pháp trị và cả hai phải bảo vệ nền tảng này. Đối lập là chống lại một khuynh hướng, một chính sách chính trị ở bên trên nền tảng ấy.

GS Bông nhận xét rằng chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ có thể nêu lý do là vì đất nước đang bị sự đe dọa trầm trọng của cộng sản, vì trình độ giáo dục của quần chúng còn thấp kém dễ bị kẻ làm chính trị hoạt đầu lợi dụng, vì dân còn nghèo nên việc nâng cao mức sống cần thiết hơn, nên không thể chấp nhận sự hiện hữu của đối lập. Các điều này nghe rất giống chính quyền VN hiện nay đang rêu rao, nếu thay chữ "cộng sản" bằng chữ "các thế lực thù địch". GS Bông cho rằng các lý do này dù có chính đáng nhưng chính đáng không có nghĩa là phải chấp nhận vì dân chủ và đối lập là một tiến trình cần phải kinh qua, cần phải có kinh nghiệm do việc thực sự sống ở trong đó, cần phải học tập, bởi vì nó là một lề lối sống, một cung cách ứng xử, trong đó sự tôn trọng người khác, tôn trọng sự khác biệt, cách giải quyết văn minh những bất đồng để tạo sự hài hòa trong xã hội. Nó như chuyện bơi lội, phải xuống nước, dù biết rằng lúc ban đầu có thể bị sặc vài lần khi mới tập bơi. Nếu cứ đứng trên bờ để nại đủ thứ các lý do thì không bao giờ bơi được.

Theo GS, điều kiện tối thiểu phải có cho VN là để cho đối lập được phép khởi đầu và phát triển. Đã 45 năm mà hình như GS mới diễn giảng hôm qua, vì nó vẫn còn hoàn toàn thiếu vắng trên quê hương VN của chúng ta ngày hôm nay.


*****

Thái Lan: Quân Vương Hay Hiến Pháp "Nền Tảng Nào Cho Đối Lập"

Thái Lan có diện tích đất lớn gấp rưởi VN (514,000km² vs 329,560km²), có dân số chừng 3/4 VN (65.5 triệu vs 86 triệu). 

Với sự suy tàn và sụp đổ của đế quốc Khmer vào thế kỷ 13 và 14, Thái lập nên một quốc gia độc lập năm 1238 và trở thành một vương quốc thống nhất vào giữa thế kỷ 14 có tên là Xiêm La, năm 1939 đổi tên thành Thái Lan. 

Thái là nước duy nhất ở Đông Nam Á không bị Âu Châu đô hộ. Cuộc cách mạng đổ máu năm 1932 đã biến đổi chế độ quan chủ chuyên chính thành chế độ quân chủ lập hiến và từ đó đến nay đã có 17 hiến pháp. HP 1997 được coi là HP nhân dân vì Quốc Hội Lập Hiến, do dân bầu, soạn ra và thông qua trưng cầu dân ý. Cuộc bầu cử đầu tiên dưới HP này được tổ chức năm 2001 được coi là cuộc bầu cử cởi mở nhất và không gian lận trong lịch sử.

Cơ quan Lập Pháp có 2 viện, Thượng Viện có 150 ghế chỉ dành cho những người không đảng phái, nhiệm kỳ 6 năm, trong đó 76 ghế do dân bầu, đại diện cho 76 tỉnh thành, và 74 ghế do một ủy ban đứng đầu bởi chủ tịch Tòa Bảo Hiến chỉ định. Hạ Viện có 480 ghế, nhiệm  kỳ 4 năm, trong đó 400 ghế do dân bầu trong 157 quận hạt và 80 ghế chia theo tỷ lệ đảng phái.

Vương vị thì được kế truyền, nhưng thủ tướng thì do liên minh đa số trong Hạ Viện chọn lựa và nhà Vua chỉ định như trong các chế độ quân chủ lập hiến khác, thủ tướng có tối đa 2 nhiệm kỳ và mỗi nhiệm kỳ là 4 năm.

Về kinh tế, Thái có một hệ thống hạ tầng cơ sở tốt, theo đường lối kinh tế thị trường. Tuy bị khủng hoảng tài chính năm 1997-98 nhưng đã hoàn toàn phục hồi, mức tăng trưởng khoảng 4.5% năm 2007. Kỹ nghệ du lịch vừa phục hồi sau cơn sóng thần 2004. Sau đảo chánh 2006 thì đầu tư ngoại quốc bị sụt giảm vì bất ổn chính trị. Chính yếu của sự phát triển là nhờ vào xuất cảng nông phẩm và các sản phẩm về xe hơi. Tổng sản lượng năm 2007 là $522 tỷ đô la và lợi tức bình quân đầu người là $8,000 đô la (VN: $221 tỷ và $2,600). Người Thái chiếm 75% dân số và 95% dân chúng theo đạo Phật.

Trong thời Chiến Tranh Lạnh cho đến thập niên 1980s, Thái thường hay bị đảo chánh bởi quân đội. Tình trạng tương đối khá hơn trong thập niên 80s và 90s, nhưng từ 2006 đến nay thì có nhiều bất ổn và chia rẽ xã hội, có thể dẫn tới tình trạng vô chính phủ. Vua Thái BHUMIBOL Adulyadej năm nay 81 tuổi đã trị vì 62 năm từ năm 1946 lúc ông mới 18 tuổi, khi vua Ananda, anh của ông bị chết một cách mờ ám. Ông được sinh ra ở Mỹ và mẹ của ông là một thứ dân lai Tàu. Ông là một người thông minh, có nhiều tài năng và quan tâm đến sự an sinh của dân chúng, nhờ vậy mà ông đã xây dựng được một chế độ quân chủ thịnh vượng và uy quyền. Trong khi hầu hết các chính thể quân chủ đã xóa bỏ tội "phạm thượng" trong luật pháp của họ, Thái là nước áp dụng luật này gắt gao nhất, một sự phê bình dù ôn hòa hợp lý cũng có thể bị kết án 15 năm tù. Do đó, chính trị gia nào cũng đều nói trung quân và tội phạm thượng đã được các chính trị gia dùng làm vũ khí chính trị lợi hại để triệt hạ đối thủ.

Từ lúc ông trị vì cho đến nay đã có 15 lần đảo chánh và theo tuần báo Economist ngày 6/12/08 thì đều do nhà Vua đứng đàng sau xen vào. Cuộc đảo chánh 2006 vừa qua có dáng dấp của một sự tạo vị trí để tranh quyền trước khi nhà Vua băng hà và hoàng thái tử nối ngôi. Tang lễ của chị ông, Công Chúa Galyani trong tháng 11/08 vừa qua cho thấy hai đìều (1) một sự tập dượt nghi lễ để sẵn sàng khi ông băng hà, và (2) vai trò nổi bật của hoàng thái tử Vajiralongkorn để chuẩn bị nối ngôi. 

Vì tình trạng sức khỏe của nhà Vua càng ngày càng suy yếu, cho nên ta thấy có sự điều động mạnh mẽ của các trung tâm quyền lực như cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra, trong quá khứ đã rộng rãi giúp đỡ vị hoàng thái tử 56 tuổi Vajiralongkorn, các lãnh tụ của Liên Minh PAD (People's Alliance for Democracy) vây quanh hoàng hậu Sirikit, các tướng lãnh và quân đội vây quanh nhà Vua, và nhà Vua thì có vẽ tin tưởng vào công chúa Sirindhorn 53 tuổi, một người hoạt bát, năng động làm việc xã hội và được quần chúng mến mộ.

Đằng sau các câu chuyện thần tiên về hoàng gia Thái là một sự thật hoàn toàn khác biệt. Nhà Vua quan tâm đến việc làm cho hình ảnh của mình được nổi bậc. Hoa Kỳ, vì cần ông trong thời kỳ Chiến Tranh VN nên đã hổ trợ tài chính cho ông trong việc đánh bóng hình ảnh và hạn chế phương tây trong việc phê bình hay chỉ trích ông. Mỗi lần có đảo chánh thì ông cho tiếp lãnh tụ của phe đảo chánh, gởi cho quần chúng tín hiệu là ông đồng ý với phe đảo chánh. Khi không đồng ý thì ông hoặc điều động binh sĩ, hoặc bày tỏ sự không hài lòng, hoặc ra lệnh Tòa Bảo Hiến hành động theo ý ông, như buộc tội ông Thaksin, hay mới vừa qua giải tán liên minh cầm quyền. 

Lý tưởng của hoàng gia Thái là muốn nhà Vua được dân chúng ngưỡng mộ như ở Bhutan, nơi vua nắm quyền chuyên chính, nhưng trong thực tế dân chúng bất mãn hoàng hậu vì bà ủng hộ hành động vô luật pháp của PAD và nhà Vua không có hậu duệ xứng đáng để nối ngôi (hoàng thái tử là người ăn chơi, từng là du đảng, không thích công vụ, đã 3 lần cưới vợ, có  7 con) cho nên hoàng gia có thể đi theo vận mạng của Vua Nepal, nơi mà xứ sở bị nội chiến và sau đó nhà Vua bị trở thành thứ dân. 

Hình ảnh những kẻ quá khích PAD mang hình Vua và bắn những người ủng hộ chính quyền cho thấy hoàng gia là một phần của vấn nạn. Sự im lặng của nhà Vua đối với kẻ biểu tình đã làm thiệt hại nặng nề cho nền pháp trị và định chế chính quyền được quy định trong hiến pháp.

Được xây dựng trên nền tảng dân chủ qua chính thể quân chủ đại nghị (hay còn gọi là quân chủ lập hiến), nhưng nhà Vua thực sự không tin vào dân chủ và luôn đứng sau hậu trường để xen vào công việc của chính quyền. Nó không giống như ở Nhựt, tuy Nhựt Hoàng được dân chúng kính nể như thiên tử nhưng không bao giờ xen vào công việc của chính phủ. So ra nó còn tệ hơn cả Cam Bốt trên bình diện tôn trọng định chế. Trong khi các chế độ độc tài, từ Tây Ban Nha đến Ba Tây đã phát triển mạnh về dân chủ, việc chính trị chỉ tranh đấu trong nghị trường thì Thái Lan trái lại, nó được mang ra đường phố. 

Trước mặt là những ngày suy tàn của nhà Vua, ông không xuất hiện nổi trong ngày sinh nhật 5/12 vừa qua, khoảng chân không chính trị đang ló dạng mà các định chế của dân chủ pháp trị và đối lập chính trị thì bị tổn thương.

Ông Thaksin Shinawatra và đảng Thai Rak Thai (TRT) đã thắng lớn trong cuộc bầu cử năm 2001. Dân Thái lúc đó cảm thấy cần phải có một lãnh tụ CEO đã từng có kinh nghiệm lãnh đạo công ty, một người cộng hòa phù hợp với Hiến Pháp dân chủ 1997. Trong nhiệm kỳ 4 năm từ 2001-05 ông đã thành công vẽ vang với chính sách hướng về dân nghèo ở hạ tầng xã hội, bảo hiểm sức khỏe cho mọi người, cho vay nhỏ, bài trừ ma túy v.v.. Ông tái đắc cử vẽ vang năm 2005. Đứng trước sự thành công này, uy quyền và hào quang của hoàng gia cảm thấy bị đe dọa. Chiến dịch triệt hạ ông Thaksin được khởi động qua việc tố gia đình ông lợi dụng chức quyền để làm lợi riêng và có nhiều người buôn ma túy bị cảnh sát giết mà không xét xử. 

Liên Minh PAD có hoàng gia ủng hộ phía sau được thành hình và biểu tình chống chính quyền. Vì việc này nên năm 2006 ông Thaksin cho bầu lại Quốc Hội và đảng ông vẫn chiếm đa số, ông tái tục làm thủ tướng. 

Trước sự lớn mạnh của dân chủ, hoàng gia cho là sẽ che lấp uy quyền nhà Vua đang suy thoái theo tuổi già, hoàng gia đã đứng về phía quân đội trong cuộc đảo chánh ngày 19/9/2006 do tướng Shonthi Boonyaratglin thực hiện và một nhân viên hội đồng cơ mật hoàng gia là tướng Surayud Chulanont làm thủ tướng. Đảng TRT bị giải tán ngày 30/5/2007 và 111 người lãnh đạo bị cấm làm chính trị 5 năm.

Sau khi đảng TRT bị giải tán, người của họ thành lập đảng mới là PPP (People's Power Party) và thắng cuộc bầu cử ngày 23/12/2007 do chính quyền quân nhân tổ chức, ông Samak Sundaravej liên kết với 5 đảng nhỏ để thành lập chính quyền và trở thành thủ tướng. Hoàng gia càng cảm thấy bị đe dọa hơn bởi sức mạnh của dân chủ, do đó PAD tiếp tục biểu tình ở công sở và phi trường với lý do rằng ông Samak cũng chỉ là người của Thaksin. Tháng 9/2008 Tòa Bảo Hiến phán ông Samak tham dự cuộc trình diễn nấu ăn có nhận thù lao nên vi phạm luật, phải từ chức. Ông Somchai Wongsawat được PPP chọn thay thế làm thủ tướng, nhưng PAD vẫn không chấp nhận vì cho rằng ông là anh vợ của Thaksin nên vẫn là người của Thaksin. Đây chỉ là cái cớ, cái diện, chứ cái điểm chính yếu là thế lực dân chủ phải bị tiêu diệt. 

Họ chiếm 2 phi trường của Bangkok cả tuần lễ làm trên 300 ngàn hành khách bị kẹt. Ngày 2/12/08 Tòa Bảo Hiến phán PPP và 2 đảng nhỏ gian lận bầu cử, bị giải tán, các lãnh đạo bị cấm hoạt động 5 năm, thủ tướng Somchai phải từ chức. Hiện PPP đang tái tổ chức thành một đảng mới có tên là Phuea Thai Party (Vì Dân Thái) nhưng có khoảng 37 thành viên của họ đã chạy qua đảng Dân Chủ là đảng đối lập ủng hộ PAD. Đảng Dân Chủ định thành lập chính quyền với lãnh tụ là ông Abhisit Vejjajiva, 44 tuổi, sinh ra và giáo dục ở Anh, làm thủ tướng. Ngày 12/12/08 những người áo đỏ ủng hộ ông Thaksin với trên 10 ngàn người biểu dương lực lượng và ông Thaksin qua điện thoại nói chuyện với họ từ United Arab Emirates.

PAD với đội quân áo vàng màu hoàng gia muốn tìm cách ngăn cấm sự phục hồi của TRT, PPP cũng như Pheua Thai, coi họ là thế lực dân chủ đang lên, đe dọa uy quyền của hoàng gia và quân đội. Họ muốn sửa đổi hiến pháp để quốc hội là một cơ quan do hoàng gia bổ nhiệm. Họ cho rằng dân chúng chưa đủ trình độ để tham gia bầu cử (điều mà theo GS Bông, dù cho có chính đáng đi nữa thì cũng không thể chấp nhận được). 

Tòa Bảo Hiến đã kết án khiếm diện ông Thaksin vào tháng 10/08 hai năm tù ở. Công chúa Sirindhorn khi được báo chí Mỹ phỏng vấn, cho rằng PAD làm là vì quyền lợi phe nhóm của họ. Báo Economist số ngày 31/5/2008 trích lời của ông bộ trưởng Jakrapob Penkair trong chính phủ của thủ tướng Samak rằng "hệ thống trung thành với đàn anh kẻ cả (patronage) dễ làm cản trở sự phát triển của đất nước, làm cho người ta mắc nợ sự trung thành với người chủ của mình thay vì với các định chế mà người ta lẽ ra phải phục vụ, làm thiệt hại nền pháp trị và khuyến khích sự nhũng lạm".

Để kết luận, nếu các thế lực chính trị không tôn trọng chính thể mà trong đó họ hoạt động, trong trường hợp Thái Lan đó là chính thể quân chủ lập hiến, nếu nhà Vua không tôn trọng ý dân (mà theo lý thuyết của các chính thể quân chủ đó là ý Trời), nếu các chính khách không tôn trọng và trung thành với các định chế và giá trị mà chính họ rêu giảng đến dân chúng để nhân danh, nếu họ chỉ lo trung thành với những cá nhân là xếp lớn của mình, thì nền tảng của dân chủ pháp trị và đối lập chính trị trong tinh thần trách nhiệm không được cũng cố.

Thời Chiến Quốc, Dự Nhượng có thể sơn mình đổi hình nuốt than đổi giọng, giả làm ăn mày để tìm cách thích khách Triệu Vô Tuất trả thù cho chủ của mình là kẻ hung tàn Trí Bá, để phục vụ cho giá trị trung thành với cá nhân, tuy có ý chí và đảm lược nhưng chẳng giúp ích được gì cho quốc gia dân tộc.

Liệu Việt Nam trong tiến trình hướng về dân chủ, có xây dựng được một chính thể dân chủ pháp trị và đối lập chính trị hay không? Có trung thành với nó và các giá trị của nó hay không? Có học được gì từ bài học của Thái Lan hay không?

Lê Minh Nguyên




Nội dung Paltalk Chủ Nhật 4/9/2016

Chủ đề:

Qua sự kiện bắn giết ở Yên Bái, thử phân tích các nhóm lợi ích và sự tàn phá tài nguyên quốc gia của Đảng CSVN.


bit.ly/2bRPLOf


Sunday, September 4, 2016

Yêu Thương và Chiến Đấu

Trong mỗi một con người, dù là nam hay nữ, đều có hai năng lực vĩ đại trong người: Yêu Thương và Chiến Đấu.

Trong Yêu Thương người ta muốn đối tượng sung sướng để mình được sung sướng.

Trong Chiến Đấu người ta muốn đối tượng bị thương để mình được sung sướng.

Nhìn quanh, chúng ta luôn thấy có những trường hợp yêu thương và đổ vỡ của những gia đình. Khi họ sử dụng năng lực yêu thương thì thật là tuyệt vời. Nhưng khi họ sử dụng năng lực chiến đấu thì thật là một sự tàn phá, tài sản mất hết vào tay các luật sư, cho đến khi không còn gì nữa để mất, thì họ mới chấp nhận chia tay trong hoà bình.

Cũng có những trường hợp khi sử dụng năng lực yêu thương thì lại bị chi phối bởi năng lực chiến đấu, làm cho năng lực yêu thương không có không gian để phát triển hay phát triển trong điều kiện không bình thường. Những người được huấn luyện để nghi ngờ tất cả mọi người, như trong nghiệp vụ tình báo chẳng hạn, thì người đó nghi ngờ cả người phối ngẫu của mình, làm cho năng lực yêu thương không thể phát triển một cách mạnh lành.

Người cộng sản được huấn luyện để nghi ngờ, nghi ngờ chính những đồng chí chung quanh, để đấu tranh giai cấp, khoá chặc năng lực thương yêu và chỉ biết có năng lực chiến đấu. Muốn chiến đấu thì cần có kẻ thù, cho nên ai cũng là kẻ thù của họ cả, chỉ là khác thứ tự ưu tiên (như: trí, phú, địa, hào - phải đào cho tận gốc - phải móc cho tận rễ).

Hậu quả là đất nước rách nát! Gia đình tan vỡ!

LMN
3/9/2016